Tổng quát về composite


VẬT LIỆU COMPOSITE NHA KHOA

1.     Sơ lược thành phần composite:

·         Khung nhựa: chiếm 25-50% thể tích composite . Chúng là chất kết dính giữa các chất độn và ảnh hưởng lên đặc tính composite như: hệ số giãn nở nhiệt, phản ứng đông cứng, khả năng hấp thụ nước và hòa tan. Các loại khung nhựa hiện nay gồm Bis-GMA, UDMA hoặc TEGDMA.

·         Hạt độn: chiếm 26-75% thể tích. Cấu trúc thường là những hạt silicate glass, có thể thêm các ion của Li, Al, Ba, B, Zn, Zr, Y. Chúng được sử dụng để làm tăng tính chịu lực, tính kháng mòn, giảm co khi trùng hợp, giúp vật liệu trở nên dễ sử dụng hơn.

·         Chất nối: tác dụng để tránh nước thâm nhập vào bề mặt giữa hạt độn và khung nhựa, giúp chúng bền vững với lực thủy phân và cải thiện những đặc tính của composite. Về cấu trúc, chúng là một khoáng hữu cơ (silane) 3-Methacryloxy propyltrimethoxy silane.
·         Chất khơi mào, xúc tác trùng hợp.
·         Các chất khác: chất tạo màu huỳnh quang, chất ổn định

2.     Cơ chế trùng hợp composite:

·         Cơ chế quang trùng hợp: Trước đây, cơ chế quang trùng hợp từng được sử dụng với tia UV, tuy nhiên vì độ xuyên thấu kém và gây hại cho mắt nên tia UV  đã nhanh chóng bị thay thế bằng vùng ánh sáng nhìn thấy. Ngày nay, loại này chứa chất khơi mào ánh sáng (camphorquinone), giúp composite trùng hợp được trong phổ ánh sáng 400-500 nm (vùng ánh sáng xanh). Tuy vậy, chúng trở nên nhạy cảm với ánh sáng xung quanh, dẫn đến sự trùng hợp sớm trước khi chiếu đèn từ 60-90 giây. Composite cứng hoàn toàn sau khi chiếu đèn, nhưng các phản ứng lưu hóa vẫn tiếp tục xảy ra trong 24 giờ tiếp theo.

·         Cơ chế hóa trùng hợp: Loại composite gồm hai thành phần là base (aromatic tertiary amine) và catalyst (benzoyl peroxide). Sự trùng hợp chỉ xảy ra khi ta trộn hai thành phần này với nhau. Cơ chế này khá tiện lợi, đơn giản và dễ sử dụng, dễ bảo quản. Tuy vậy, việc trộn sẽ làm vướng một lượng không khí vào vật liệu, làm chúng xốp hơn, từ đó gây suy yếu trong cấu trúc và dễ gây vết dính trên vật liệu. Hơn nữa, loại vật liệu này cũng không bền màu do Aromatic amine là chất dễ bị oxi hóa và ngả màu vàng.

·         Cơ chế lưỡng trùng hợp: bao gồm cả hóa trùng hợp và quang trùng hợp. Loại composite này có thể giúp composite được trùng hợp đầy đủ ngay cả những vị trí ánh sáng không chiếu tới. Chúng cũng gồm hai thành phần tương tự hóa trùng hợp, tuy vậy chúng lại được gia tốc bởi ánh sáng. Vì thế chúng có những điểm bất lợi tương tự cơ chế hóa trùng hợp.

3.     Một số loại composite

·         Microfill composite:
Đây là loại có hạt độn nhỏ nhất (0.04 µm). Vì vậy, chúng có độ kháng mòn, độ chịu lực thấp và co lại khi trùng hợp cao. Tuy nhiên, microfill composite lại có độ bóng cao và giữ được độ bóng tốt hơn so với các loại khác. Thêm vào đó, chúng có khả năng kháng mảng bám và vết dính tốt, vì vậy chúng có độ tương hợp sinh học cao đối với mô nướu. Hơn nữa, microfill composite có khả năng giả màu men tốt nhất. Vì vậy đây là loại có tính thẩm mỹ cao. Trong kĩ thuật trám từng lớp, ta có thể đặt microhybrid hoặc nanofill composite cho phần lớp ngà, và sử dụng microfill composite cho phần men để đạt tính thẩm mỹ và tính đề kháng tối ưu.

·         Macrofill composite:
 Có hạt độn lớn (5-10 µm). Vì vậy, chúng có khả năng chịu lực tốt nhưng rất khó đánh bóng và để lại bề mặt gồ ghề, gây tăng mảng bám.

·         Microhybrids composite
Chúng có kích thước hạt độn lớn hơn so với nanofill và microfill, vì vậy độ kháng mòn, độ chịu lực cao hơn và độ đục cũng là cao nhất trong ba loại composite. Chính vì đặc điểm này, microhybrids là sự lựa chọn để che đi sự đổi màu ở răng và là thành phần hoàn hảo cho lớp ngà. Trong lâm sàng, chúng thường dùng để trám các răng sau hoặc là lớp composite nâng đỡ bên dưới cho microfill.

·         Nanofilled composite
Việc kết hợp công nghệ nano vào sản xuất composite đã giúp chúng ta tạo được bước tiến lớn trong nha khoa thẩm mỹ. Trên thị trường có hai loại nanofill đang hiện hành: đó là completely nanofilled resin và nanohybride. Completely nanofill là loại composite có hạt độn hoàn toàn ở kích thước nano trong chất nền resin. Còn nanohybride lại là loại composite có hạt độn kích thước lớn được bao xung quanh bởi các hạt độn nano.
Nanohybride nhờ có những hạt độn lớn nên chúng vẫn giữ được độ chịu lực và độ kháng mòn tốt của microhybrid, mà vẫn giữ được độ bóng của microfilled composite. Khác so với nanohybride, completely nanofilled composite mang lại độ trong mờ hoàn hảo giống như răng thật. Tuy vậy, ta cần chú ý rằng độ bóng của loại vật kiệu nano không thể giữ lâu được như microfill nên sự đề kháng với mảng bám và vết dính về lâu dài vẫn kém hơn microfill. Tuy nhiên, vì độ chịu lực tốt, độ bóng và độ mịn của bề mặt cao hơn microfill, nên chúng vẫn là sự lựa chọn tốt nhất khi chỉ sử dụng một loại vật liệu để trám. Chúng khá tốt để chỉ định cho trám răng sau, trám các răng dưới trước, veneer, inlay, onlay, trám xoang IV.

·         Composite lỏng:
Composite lỏng có nồng độ chất độn thấp (37-53%), vì vậy các tính chất vật lý đều giảm và tăng tính co lại sau trùng hợp. Tuy vậy, composite lỏng lại dễ sử dụng và tạo bề mặt tiếp xúc tốt hơn đối với composite và bề mặt răng. Chính vì thế composite lỏng được khuyên sử dụng ở những vùng chịu lực thấp, hoặc dùng để trám lót cho các loại composite khác.

·         Composite nguyên khối (bulk filler):
Composite nguyên khối giúp ta giảm bớt được các bước lâm sàng để trám răng, từ đó tiết kiệm thời gian và đơn giản hóa quá trình làm việc. Gọi là composite nguyên khối vì chúng có thể được đặt vào răng dưới dạng những khối composite dày 4-5mm. Để đạt được độ dày này, các nhà sản xuất đã phát triển về các chất khơi mào phản ứng và độ trong mờ của composite, để ánh sáng có thể xuyên sâu hơn vào các lớp composite bên dưới. Tuy vậy, chúng cũng có những bất lợi khi sử dụng. Vì lượng composite lớn, ta khó có thể điều khiển để đặt chúng vào xoang trám. Hơn nữa, chúng cũng khó tạo được tiếp xúc hoàn hảo với mô răng xung quanh. Bên cạnh đó, chúng có độ chịu nén và độ kháng mòn thấp hơn so với các dạng composite thông thường.

4.     Sự co trùng hợp của composite:
·         Sự co trùng hợp trung bình của composite trong khoảng 1,5-4% thể tích. Composite với lượng chất độn nhiều hơn sẽ co ít hơn. Composite hóa trùng hợp do có phản ứng xảy ra chậm hơn dạng quang trùng hợp, vì vậy chúng có nhiều thời gian để thích nghi và nới lỏng. Hậu quả của lực co trùng hợp là dẫn đến tình trạng hở bờ miếng trám do lực có thể làm đứt sự kết nối giữa composite và bề mặt xoang.

·         Sự co trùng hợp bị ảnh hưởng bởi các yếu tố:
- Tổng lượng composite.
- Loại composite.
- Tốc độ trùng hợp
- Yếu tố C

·         Một số kĩ thuật để hạn chế sự co trùng hợp:
*      Giảm yếu tố C bằng kĩ thuật trám từng lớp
v  Yếu tố C là tỉ lệ giữa bề mặt được dán và bề mặt không được dán của composite (Bonded surface/non bonded surface = C factor )
v  Trong quá trình phản ứng, bề mặt được dán sẽ tạo lực kéo miếng trám tách khỏi bề mặt xoang. Trong khi đó, bề mặt không được dán sẽ di chuyển theo lực co này (lực đi vào trong miếng trám), giúp giải phóng lực tốt hơn. Vì vậy yếu tố C càng nhỏ, miếng trám càng ít nguy cơ bị ảnh hưởng bởi lực co trùng hợp.
v  Với kĩ thuật trám từng lớp, yếu tố C trở nên tối thiểu vì khi đó từng lớp mỏng một sẽ làm tăng tỉ lệ diện tích không được dán.

*      Khởi đầu nhẹ với ánh sáng tăng dần (soft start, ramp curing):
Khởi đầu với cường độ ánh sáng thấp, sau đó tăng dần dần cho đến khi cường độ đạt mức tối đa. Composite được trùng hợp hoàn toàn trong thời gian này. Kĩ thuật này giúp kéo dài thời gian trùng hợp, từ đó các mối liên kết có thời gian nới lỏng từ từ trước khi đạt đến điểm gel (gel point).

*      Chiếu đèn trì hoãn (delayed curing):
Khởi đầu bằng cường độ ánh sáng thấp, và duy trì cường độ này trong một khoảng thời gian đủ để trùng hợp phần bề mặt composite. Sau đó, sự trùng hợp chậm lượng composite bên trong sẽ xảy ra từ từ trong 3-5 phút. Trong lúc này, ta hoàn tất và đánh bóng miếng trám. Cuối cùng, quá trình kết thúc bằng việc chiếu cường độ ánh sáng mạnh lên miếng trám.



NGUỒN THAM KHẢO:
1.       Composite depth of cure using four polymerization techniques. Ericson Janolio de Camargo, Eduardo Moreschi, Wagner Baseggio, Jaime Aparecido Cury, Renata Corrêa PascottoJ Appl Oral Sci. 2009 Oct; 17(5): 446–450. doi: 10.1590/S1678-77572009000500018
5.       Benefits and drawbacks of bulk-fill dental composites: a systematic review. Nujud S.A. Edrees, BDS; Hadeel S. A. Amer, BDS; Khalid M. Abdelaziz, BDS, MDSc, PhD; Wafa Alajam, BDS, MSc, PhD King Khalid University, College Of Dentistry, Abha, Saudi Arabia. ejpmr, 2017,4(10), 124-137
6.       https://www.dentistrytoday.com/pediatric-dentistry/4827-flowable-composites-aesthetics-for-tots-and-teens
8.       Abbasi M, Moradi Z, Mirzaei M, Kharazifard MJ, Rezaei S. Polymerization Shrinkage of Five Bulk-Fill Composite Resins in Comparison with a Conventional Composite Resin. J Dent (Tehran). 2018;15(6):365-374.

Nhận xét